clean-5

Wisata

Budaya

Kuliner

Kerajaan

kota

Suku

Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Di tích của nghìn năm văn hiến

Tọa lạc trên khuôn viên hơn 54.000m2, khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám nằm giữa bốn dãy phố, cổng chính ở đường Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc giáp đường Nguyễn Thái Học, phía Đông giáp phố Tôn Đức Thắng, phía Tây là phố Văn Miếu.
Bức ảnh Khuê Văn Các xưa
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía nam kinh thành Thăng Long thời nhà Lý.

Các nhà nghiên cứu ngày nay đều thống nhất nhận định rằng quy mô, vị trí hiện tại của Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn tương tự như thời mới xây dựng. Những lớp kiến trúc của Văn Miếu hiện còn đều là kiến trúc thời Hậu Lê và đầu triều Nguyễn. Bờ tường gạch bao quanh Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây bằng gạch vồ, loại gạch phổ biến thời Hậu Lê, Hồ Văn trước đây còn có tên là Minh Đường là nơi tụ khí huyệt, đảo Minh châu nơi thường diễn ra những buổi ngâm vịnh bình thơ của các văn nhân sĩ tử thời xưa. Ở cạnh trường học nên vườn Giám chính là nơi nghỉ ngơi hoặc diễn ra các sinh hoạt sau giờ học của các học trò Quốc Tử Giám. Quần thể kiến trúc được quy tụ trong một khuôn viên rộng rãi với năm khu chính nối tiếp nhau chủ yếu trên trục dọc: từ Văn Miếu môn đến Đại Trung môn, Khuê Văn các, Thiên Quang tỉnh, Vườn bia, khu Đại Thành điện, Đại Bái đường, Hậu cung và khu nhà Thái học.


Khu vực thứ nhất gồm có Văn hồ (hồ văn); Văn Miếu môn, tức cổng tam quan ngoài cùng, cổng có ba cửa, cửa giữa to cao và xây hai tầng, tầng trên có ba chữ Văn Miếu môn. Phía nam, trước mặt Văn Miếu là hồ Minh Đường hay Văn hồ dân gian thường gọi là hồ Giám. Chính quyền thành phố Hà Nội đã cố gắng giải toả, nhưng hiện nay diện tích cũng chỉ còn được 12297 m2, giữa hồ có gò Kim Châu, trên gò dựng Phán Thuỷ đường (là nơi diễn ra các buổi bình văn thơ của nho sĩ kinh thành xưa). Theo ý đồ kiến trúc, đây vốn là cái "tiểu minh đường" của Văn Miếu, là một bộ phận khăng khít của toàn bộ công trình kiến trúc chung.

Khu thứ hai, từ cổng chính đi thẳng vào cổng thứ hai là Đại Trung môn, bên trái là Thánh Dực môn, bên phải có Đạt Tài môn. Tiếp trong là Khuê Văn Các (được xây dựng vào nǎm 1805).

Từ cổng chính Văn Miếu môn, vào không gian thứ nhất gọi là khu Nhập đạo, theo đường thẳng tới cổng thứ hai là Đại Trung môn. Ngang hàng với Đại Trung môn bên trái có Thành Đức môn, bên phải có Đạt Tài môn. Theo văn bản của ông Đỗ Văn Ninh trước đây hai cổng tả môn và hữu môn ở phía trước và bằng Đại Trung môn, Thánh Dực môn và Đạt tài môn ở phía sau. Hai bên tả hữu của cả khu Văn Miếu, cùng với tường ngang nơi Văn Miếu môn tạo thành một khu hình gần vuông có tường vây khép kín ra vào bằng Văn Miếu môn. Trong khu vực này trồng cây bóng mát gần kín mặt bằng. Hai chiếc hồ chữ nhật nằm dài sát theo chiều dọc bên ngoài.
Khuê Văn Các
Con đường thẳng từ Văn Miếu môn tới Đại Trung môn lại vươn tiếp thẳng tới Khuê Văn Các. Từ hai cửa Đạt Tài và Thành Đức ở hai bên cửa Đại Trung, hai con đường nhỏ hơn song song chạy thẳng với con đường trục giữa, chia khu vực thứ hai này thành 4 dải khá cân bằng. Việc lặp lại một khu vực chỉ có cây có cỏ, việc làm thêm dãy tường ngăn và làm thêm lớp cửa ra vào, được các nhà kiến trúc cho là rất thành công trong ý đồ tạo nên cảnh thâm nghiêm, tĩnh mịch của khu vực kiến trúc.

Khu thứ ba là giếng Thiên Quang (Thiên Quang tỉnh có nghĩa là giếng trời trong sáng). Tại khu vực này có 82 bia Tiến sĩ dựng thành hai hàng, mặt bia quay về giếng, là một di tích thật sự có giá trị.

Thiên Quang tỉnh còn được gọi là Văn Trì (Ao Văn). Thiên Quang nghĩa là ánh sáng bầu trời. Đặt tên này cho giếng, người xây dựng có ý muốn nói con người thu nhận được tinh túy của vũ trụ, soi sáng tri thức, nâng cao phẩm chất, tô đẹp nền nhân văn. Giếng hình vuông, quanh bờ đều xây hàng lan can tới độ ngang lưng. Người xưa còn có quan niệm giếng hình vuông tượng trưng cho đất, cửa tròn gác Khuê Văn tượng trưng cho trời. Tinh hoa của cả trời cả đất đều được tập trung ở trung tâm văn hóa giáo dục uy nghiêm giữa chốn đế đô này. Một con đường nhỏ lát gạch bao quanh giếng cho phép người ta có thể dạo quanh giếng, lên gác Khuê Văn, vào cửa Đại Thành hoặc rẽ sang 2 vườn bia đá ở 2 bên.
Bia Tiến sĩ
Nhưng có lẽ di tích có giá trị bậc nhất ở đây là 82 tấm bia Tiến sĩ dựng ở hai bên phải trái của giếng Thiên Quang, mỗi bên 41 tấm dựng thành 2 hàng ngang, mặt bia đều quay về phía giếng. Việc chạm khắc chữ Hán trên bia là một công trình nghệ thuật đặc sắc. Trán bia cong thường có hình hai rồng chầu mặt nguyệt, rồng được cách điệu rất tinh tế trở thành những đám mây uyển chuyển, sinh động. Diềm bia được trang trí hoa văn hình hoa lá cách điệu kết hợp với chữ triện. Đế bia hình rùa tạo hình vững chãi, bền chắc mang ý nghĩa trường thọ, vĩnh cửu. Hình tượng con rùa biểu thị cho sự trường tồn vĩnh cửu…

Rùa, theo Từ điển biểu tượng thế giới, là thuộc nam tính và nữ tính: thuộc loài người và vũ trụ, ý nghĩa biểu trưng của nó trải rộng ra khắp các miền của trí tưởng tượng. Mai rùa phía trên như bầu trời, giống như biểu tượng của mái vòm, phía dưới phẳng như mặt đất. Riêng thế cũng đã có thể minh chứng rùa như một biểu tượng đầy đủ của vũ trụ.
Các sỹ tử thường đến thăm Văn Miếu để bày tỏ lòng thành kính và cầu mong thi cử hiển vinh, đỗ đạt
Qua cửa Đại Thành là vào khu vực thứ 4, cửa Đại Thành cũng mở đầu cho những kiến trúc chính như hai dãy Tả Vu và Hữu Vu, chính giữa là Toà Đại Bái đường, tạo thành một cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính và truyền thống. Xưa, đây là nơi thờ những vị Tổ đạo Nho.

Cửa Đại Thành (cửa của sự thành đạt lớn lao), mở đầu cho khu vực của những kiến trúc chính, nơi thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ Phối, Thất thập nhị hiền v.v... và cũng là nơi giảng dạy của trường giám thời xưa, mang một cái tên đầy ý nghĩa tưởng không còn có thể chọn một tên nào có ý nghĩa hay hơn.

Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng mênh mang lát gạch Bát Tràng. Hai bên phải trái của sân là 2 dãy Hữu Vu và Tả Vu. Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to lớn và thâm nghiêm trải suốt chiều rộng của sân nối giáp với đầu hồi của Tả Vu , Hữu Vu 2 bên, tạo thành cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính và thuyền thống. Sau Đại Bái Đường, song song với Đại Bái Đường là tòa Thượng Điện, có quy mô tương tự cả về chiều cao lẫn bề rộng. Đại Bái Đường nối với Thượng Điện bằng một Tiểu Đình hình vuông. Nếu tách riêng cụm 3 kiến trúc này ra mà nói thì chúng được xây dựng theo hình chữ công mà Tiểu đình chính là nét sổ giữa và Đại Bái Đường, Thượng Điện là 2 nét ngang trên và dưới.

Khu thứ năm (khu trong cùng) là nơi giảng dạy của trường Quốc Tử Giám thời Lê, nhiều thế hệ nhân tài "nguyên khí của nước nhà" đã được rèn giũa tại đây. Khi nhà Nguyễn dời trường Quốc học vào Huế, nơi đây dùng làm đền thờ Khi Thánh (cha mẹ Khổng Tử), nhưng ngôi đền này đã bị hư hỏng hoàn toàn trong chiến tranh...

Bố cục của toàn thể Văn Miếu như vậy muộn nhất là cũng có từ đời Lê (thế kỷ 15 - thế kỷ 18). Riêng Khuê Văn Các mới được dựng khoảng đầu thế kỷ 19, nhưng cũng nằm trong quy hoạch tổng thể vốn có của những Văn Miếu (như Văn Miếu ở Khúc Phụ, Trung Quốc, quê hương của Khổng Tử, có đủ Ðại Trung Môn, Khuê Văn Các, Ðại Thành Môn, Ðại Thành Ðiện, bia tiến sĩ...). Khuê Văn Các ở Văn Miếu Hà Nội thường là nơi tổ chức bình các bài văn thơ hay của các sĩ tử.

Nằm trong khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám, 82 bia đá về các khoa thi tiến sĩ luôn được quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như lịch sử, văn hóa, giáo dục, triết học, pháp luật, ngôn ngữ văn tự thời kỳ quân chủ tập quyền ở Việt Nam. Đặc biệt, tiêu đề của bia viết theo lối triện thư, một thể chữ truyền thống của Trung Hoa hình thành thời Chiến Quốc và ngày nay ít được sử dụng.
Bác Hồ bên Bia Tiến Sỹ
Kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một khu di tích đặc biệt của thủ đô Hà Nội, được bao quanh bởi những viên gạch vồ cỡ lớn. Tổng thể công trình ẩn hiện dưới những vòm cây toát lên một không khí thâm nghiêm cổ kính và rất đỗi huyền bí. Lối vào chính khu Văn Miếu là Văn Miếu môn (cổng phía Nam) có dạng cổng tam quan cao hai tầng, có cổng chính và hai cổng phụ, tạo nên một tổng thể kiến trúc uy nghi nhưng không kém phần thanh thoát. Hai phía trước cổng có bia hạ mã (xuống ngựa), nhắc nhở người quân tử và những người qua lại không ngồi trên ngựa hoặc trên xe để tỏ lòng thành kính nơi tôn thờ.

Trên bức tường hoa ở cuối lớp không gian thứ nhất (từ Văn Miếu môn đến Đại Trung môn) có ba cửa đi: cửa Đại Trung (lấy tên đầu hai bộ sách quan trọng của Khổng tử: Đại học, Trung dung) là cửa giữa. Hai bên là cửa Thành Đức (trở nên đạo đức), cửa Đạt Tài (trở nên tài giỏi). Cửa Đại Trung có cấu trúc khung gỗ, mái ngói, bậc thềm bó đá. Lấp ló phía sau là Khuê Văn các in hình trong Thiên Quang - ánh sáng của trời. Sự tuyệt diệu của Khuê Văn các chính là bởi ý nghĩa biểu trưng: Các là lầu; Khuê là sao Khuê, là biểu tượng của vị thần phụ trách; Văn là cái đẹp, cũng có nghĩa là văn hóa. Văn hóa là thành tựu mà con người mô phỏng, phóng tác từ quy luật tự nhiên theo sự sáng tạo khác nhau. Nhìn nhận một cách hữu hình, có thể hiểu: Khuê Văn các (ở phía Nam) là đứng ở trên lầu nhìn ra 4 phương 8 hướng. Hình tròn và hình vuông với 8 tiếp điểm thể hiện sự gắn bó giữa quy luật và thực tế nhằm phục vụ con người. Có thể coi đây là tượng đài ca ngợi vẻ đẹp của văn chương, một nét đẹp rực rỡ toả sáng soi bóng dưới “mặt gương lớn” và duyên dáng thêm với những điểm tô của vườn bia. Với đường nét kiến trúc cân đối, hài hòa giữa các tỉ lệ và bộ phận cấu thành, Khuê Văn các đã được chọn làm biểu trưng cho văn hiến Hà Nội, ban ngày thì cao sang tuyệt đẹp, ban đêm dưới ánh đèn chiếu sáng, gác Khuê Văn trở nên lung linh huyền diệu, soi bóng xuống mặt hồ Thiên Quang tỉnh (Giếng trời trong sáng). Gương nước lớn có khả năng soi bóng hình ảnh tuyệt đẹp của Khuê Văn các, chính là cách tiếp cận Văn Miếu - Quốc Tử Giám dưới tính đa diện và sự phân tích nguồn gốc căn nguyên của nguyên tắc hình thể: “Gương nước” ở giữa phản chiếu ánh sáng bầu trời, là sự hàm ý thu nhận văn hóa khai thác để khống chế ánh sáng của trời nhằm phục vụ cho đạo học của con người. Nằm ở giữa trung tâm khu Văn Miếu, tấm gương nước có thể soi bóng tổng thể công trình kiến trúc với hiệu quả thẩm mĩ cao nhất, bộc lộc một nét đẹp độc đáo của kiến trúc hòa quyện với trời mây trong sáng. Khuê Văn các, Đại Thành môn, Vườn bia… đều in hình trong đó như thách thức với thời gian, như gợi mời những nhân tài đất Việt tạo thêm nét duyên dáng vốn có của kiến trúc Văn Miếu.

Người xưa đã xây dựng công trình Văn Miếu - Quốc Tử Giám thuận theo lẽ âm - dương - trời - đất và tự khẳng định chính là nơi hội tụ nhân tài, là một quần thể kiến trúc độc đáo nơi địa linh nhân kiệt. Khởi nguồn từ địa thế: (đứng trên cao) mở rộng tầm nhìn ra 4 phương 8 hướng, từ cõi hư vô suy xét khai thác ánh sáng vẻ đẹp của trời đất mà phục vụ cho sự học của con người - học làm người, tinh luyện văn hóa vật chất mà gây dựng văn hóa tinh thần nhằm tiến tới thành tựu tuyệt diệu cuối cùng của sự tu luyện học vấn một cách đạt thành.

Ý nghĩa của công trình Khuê Văn các và các mối quan hệ với Thiên Quang tỉnh và Đại Thành môn đã thuận theo quan điểm tứ trụ, không nằm ngoài ý nghĩa hướng đạo người quân tử. Đó là do quan điểm tứ trụ mà thành: Thiên - địa - nhân. Con người phải đem (trí tuệ) để hài hòa thiên - địa - nhân, đem tri thức để giúp đời mới là người có tri thức. Tư tưởng Nho giáo do Khổng tử - nhà giáo dục tư tưởng lớn của Trung Hoa với Tứ Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu) đã tập hợp những tư tưởng triết lý, luân lý đạo đức mà cái phép lớn nhất là phép ứng xử: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín… Các khoa thi, các vị Tiến sĩ của nền giáo dục xưa được ghi danh lại nơi những văn bia; những câu đối, những môtíp trang trí không chỉ đơn thuần làm đẹp mà còn là sự nhắc nhở những điều hay lẽ phải. Tất cả đều là đạo đức cổ nhân.

Giá trị thẩm mỹ của kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám không chỉ được tạo bởi không gian kiến trúc đột phá nhưng lại hòa quyện với không gian xung quanh nó mà hơn nữa là sự kết hợp hài hòa giữa đạo và đời, là thành phẩm của công trình kiến trúc vĩnh cửu trước thời gian. Đó là một hệ thống văn hóa tinh thần bao quanh kiến trúc, là sự kết hợp trọn vẹn của văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.

(Nguồn: Cinet)

Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Nơi hội tụ nguyên khí quốc gia

Trong số hàng nghìn di tích lịch sử của Hà Nội, thì Văn Miếu - Quốc Tử Giám là di tích gắn liền với sự thành lập của kinh đô triều Lý, đã có lịch sử gần nghìn năm, tiêu biểu cho Hà Nội và cũng được coi là biểu tượng cho văn hóa lịch sử Việt Nam, nơi thờ kính các bậc Tiên Thánh, Tiên nho và đào tạo nhân tài cho đất nước.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng vào thời nhà Lý, thế kỷ XI. Với chức năng là nơi thờ Khổng Tử với những nghi lễ tế trang trọng được tổ chức hàng năm, vừa là nơi đào tạo bồi dưỡng tri thức Nho học của Nhà nước. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một cơ quan rất quan trọng của triều đình thời bấy giờ. Những người được bổ nhiệm đứng đầu Văn Miếu – Quốc Tử Giám đều là những Đại Khoa, những nhà khoa bảng lớn, có tri thức và tài năng đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của đất nước và dân tộc.


Với bề dày gần 1000 năm, nơi đây đã đào tạo nên hàng ngàn các bậc đại khoa, hiền tài cho đất nước. Là một trung tâm giáo dục lớn nhất nước ta thời xưa, Văn Miếu – Quốc Tử Giám đồng thời cũng là nơi hun đúc nên bao truyền thống văn hóa giáo dục quý báu trong đó có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, truyền thống trọng hiền tài của dân tộc. Cũng vì thế, các thế hệ người Việt Nam xưa và nay đều tôn vinh Văn Miếu – Quốc Tử Giám là trường Đại học đầu tiên của Việt Nam.

Theo Đại Việt sử ký, vào mùa thu năm Canh Tuất - 1070, Vua Lý Thánh Tông đã cho khởi công xây dựng Văn Miếu để thờ các bậc tiên thánh tiên hiền, các bậc nho gia có công với nước, trong đó có thờ Khổng Tử - người sáng lập ra nền nho giáo phương Đông và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Đồng thời bổ nhiệm những vị quan giỏi văn vào Văn Miếu để giúp các hoàng tử, các con em quan lại.

Năm 1075, đời vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Tam trường đầu tiên ở nước ta. Khoa thi này chọn được 10 người giỏi nhất, đỗ đầu là Nguyễn Văn Thịnh người làng Đông Cứu (Bắc Ninh) sau này ông làm quan tới chức Thái sư.

Năm 1076, Vua Lý Nhân Tông quyết định khởi xây Quốc Tử Giám - một trường Nho học cao cấp nhất hồi bấy giờ nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước. Đây là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu sự chọn lựa đầu tiên của triều đình phong kiến Việt Nam về vấn đề giáo dục, đào tạo con người Việt Nam theo mô hình Nho học châu Á.

Năm 1086, đời vua Lý Nhân Tông lại mở khoa thi. Mạc Hiển Tích người làng Lũng Động (Chí Linh, Hải Dương) đỗ đầu, sau này làm quan tới chức Thượng thư, Đại học sĩ. Triều Lý rất quan tâm đến việc đào tạo, nên nền Nho học cũng bắt đầu thịnh lên từ đấy. Triều Trần (1233) đời Trần Thái Tông mở khoa Thái học sinh (sau này là Tiến sĩ), đến năm 1252 nhà Trần mở rộng chọn thêm những Nho sinh ưu tú trong dân thường được vào học tại Văn Miếu, giảng Tứ thư, Ngũ kinh và học thêm cả võ nghệ. Thời kỳ này nhà giáo Chu Văn An được mời vào giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Ông đã biên tập nhiều sách quan trọng làm nội dung giảng dạy các Nho sinh. Thời kỳ này nhà Trần đặt lại thứ bậc trong thi cử, đỗ bậc nhất có Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.

Năm 1253, vua Trần Thánh Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Học viện, đồng thời lấy đây làm nơi giảng dạy cho con em vua quan và những người học giỏi trong cả nước. Dưới triều Trần, trường quốc học Giám được nâng dần tới mức đại học và chính thức được đặt tên là Thái Học viện. Suốt ba thế kỷ Triều Lê, trường Quốc học không hề đổi chỗ, hằng năm đón học sinh khắp nơi vào học. Và cứ mỗi khoa thi, cửa nhà Thái Học lại treo bảng ghi tên những người đậu tiến sĩ. Sau đó, các vị tân khoa, trước khi về vinh quy bái tổ đều được dự nghi lễ bái yết ở Văn Miếu do triều đình tổ chức.

Thời Hậu Lê, Lê Thái Tổ (Lê Lợi) vừa lên ngôi đã quan tâm ngay đến việc giáo dục, đã tuyển chọn các Nho sinh ưu tú ở các nơi vào Quốc Tử Giám để được các thầy giỏi giảng dạy. Nhà Lê còn khuyến khích dựng trường, mở lớp ở các nơi, để nâng cao dân trí. Đời Lê Thánh Tông (1483) cho phát triển in sách, đặt ra lệ khắc tên tuổi Tiến sĩ vào bia đá cho những người thi đỗ từ năm 1442, mỗi khoa thi một tấm bia. Đời vua Lê Hiển Tông (1779) vẫn còn tất cả 116 tấm bia đá trên lưng rùa đá. Do chiến tranh, các bia đá thất lạc, nay chỉ còn 82 bia. Trong những tấm bia ấy, nhiều chỗ bị Triều Nguyễn đục xóa bỏ đi những người đỗ thời Chúa Trịnh và thời Tây Sơn. Cuối năm 1976, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một con rùa đế bia chìm dưới lòng hồ cạnh khuê Văn Các. Thân bia chưa tìm thấy song con rùa đế bia đã nâng số bia tiến sĩ lên 83. Năm 1802, nhà Nguyễn cho xây thêm Khuê Văn Các để các nhà Nho làm thơ và bình thơ.

Không chỉ nhằm tôn vinh đạo học, mỗi tấm bia ở Văn Miếu còn là một tác phẩm điêu khắc, một tác phẩm nghệ thuật thư pháp độc đáo. Văn bia đều do các bậc đại danh nho soạn. Với lời văn hàm súc, ý tứ sâu sa, văn bia đề khoa thi Nhâm Tuất do Hàn lâm viện Thừa chỉ Thân nhân Trung soạn cách đây 517 năm được coi là tuyên ngôn của nền giáo dục nước nhà: " Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy các bậc thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên".

Sử cũ ghi rằng: Vị trí của chính điện và Nhà Thái Học vẫn ở vị trí từ khi khởi dựng từ đời Lý nhưng quy mô các công trình kiến trúc được mở rộng thêm nhiều. Năm 1483, vua Lê Thánh Tông cho làm thêm điện Đại Thành, hai nhà giải vũ Đông Tây, nhà chứa ván in sách, kho tế khí, nhà Minh luân. Năm 1716, các công trình trên được Thám hoa Nguyễn Quý Đức tôn tạo lại. Năm 1717, ông đứng ra trông coi dựng 20 tấm bia tiến sĩ từ khoa thi 1656 đến 1715.

Đến thời Nguyễn, Quốc Tử Giám dời vào kinh đô Huế, Văn Miếu Thăng Long đổi gọi là Văn Miếu Bắc thành, nhà Quốc Tử Giám đổi làm đền Khải Thánh, đến thời Thành Thái (1889-1907) kiêm làm Văn chỉ huyện Thọ Xương. Chính vì những thay đổi ấy mà tấm biển lớn ở cổng trước để là Thái Học Môn được thay bằng Văn Miếu Môn.

Trong những năm dưới triều Nguyễn, Thăng Long không còn là kinh đô nhưng Văn miếu - Quốc Tử Giám vẫn được các quan đầu tỉnh chăm sóc, tôn tạo. Khuê Văn Các được dựng năm 1805 đời Gia Long, trước làm bằng gỗ, khoảng niên hiệu Minh Mạng (1820-1840), Tổng đốc Hà Nội Đặng Văn Hòa cho xây dựng lại bằng gạch rỗng, quy cách thanh thoát, rộng đẹp. Năm 1863, Bố chính Hà Nội Lê Hữu Thanh, tổng đốc Hà- Ninh Tôn Thất Hân cùng Án sát Hà Nội Đặng Tá thu nhập các bia tản mát, dựng thành hàng ở hai bên giếng Thiên Quang (mỗi bên hai hàng 41 tấm). Lại làm hai nhà bia, mỗi nhà 11 gian để che mưa nắng, nhưng chỉ được ít năm, hai nhà bia trên đã không còn nữa.

Những năm thực dân Pháp chiếm Hà Nội, hai vườn bia có lúc hoang vắng, cỏ dại mọc cao lút đầu. Năm 1947, quân Pháp bắn đại bác phá hủy hoàn toàn đền Khải Thánh, dấu tích của hai trường đại học đầu tiên chỉ còn nền điện, những bức tường đổ, vài chiếc cổng cuốn lở lói.

Từ ngày giải phóng năm 1954, nhận rõ giá trị đặc biệt của di tích, Sở văn hoá Hà Nội đã liên tục từng bước tu sửa và bảo vệ khu di tích Văn Miếu. Chiều ngày mồng một Tết Nhâm Dần (5-2-1962), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới thăm Văn Miếu và dự Chương trình ca nhạc "Mừng Đảng mừng Xuân".

Năm 1987, năm đầu tiên của thời kỳ đổi mới toàn diện của đất nước, đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã tới thăm Văn Miếu và chỉ ra "những việc cần làm ngay" ở khu di tích này. Năm 1990, tại Văn Miếu đã thành lập Trung tâm hoạt động khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Năm 1999, để kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội (1010-2000), nhà nước ta cho xây dựng lại khu Thái Học - Văn Miếu theo lối kiến trúc cổ, thờ các vị vua: Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và Nhà giáo Chu Văn An là những người có nhiều công giữ gìn và bồi đắp nền Nho học trong trường Đại học đầu tiên của nước ta.
Nơi thờ Chu Văn An
Ngày nay, Văn Miếu - Quốc Tử Giám là nơi rằm tháng Giêng hằng năm Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức báo cáo kết quả của nền văn học trong năm và bình những bài thơ hay. Đây là nơi nhà nước tổ chức trao các hàm, học vị: Giáo sư, Viện sĩ, Tiến sĩ… cho những trí thức mới. Hằng năm, cứ sau kỳ tốt nghiệp bậc đại học, thủ khoa của các trường được về Văn Miếu - Quốc Tử Giám để Chủ tịch UBND Tp.Hà Nội trao bằng khen và tham quan rất nhiều hoạt động trong lĩnh vực văn hóa được tổ chức tại Văn Miếu. Đặc biệt, khách nước ngoài từ khắp các lục địa cũng về đây hằng ngày để tham quan và tìm hiểu trường Đại học đầu tiên của Việt Nam, Văn Miếu - Quốc Tử Giám.

Văn Miếu - Quốc Tử Giám, cái nôi của nền giáo dục khoa cử Việt Nam, sau 930 năm chứng kiến bao thăng trầm nay trở lại về với vẻ đẹp xưa. Hình ảnh gác Khuê Văn nay đã trở thành biểu trưng chính thức của Thủ Đô Hà Nội, từ lâu đã in đậm trong tâm khảm của người dân Việt Nam ở trong và ngoài nước.

(Nguồn: Cinet)

Phố Hàng Lược

Phố Hàng Lược nguyên là đất thôn Phủ Từ và thôn Vĩnh Trù, Tổng Hậu Phúc, huyện Thọ Xương. Từ thời nhà Lê, nơi đây tập trung nhiều nhà sản xuất lược chải đầu nên có tên phố Hàng Lược.
Chợ hoa trên phố Hàng Lược xưa
Đến đầu thế kỷ XX, không còn ai bán lược nữa, nên phố có tên Cống Chéo - Hàng Lược (ở giữa phố có một cái cống bắc chéo qua sông Tô Lịch).


Trước đây được gọi với tên Phố Sông Tô Lịch. Phố Hàng Lược phía Bắc giáp với phố Hàng Cót, từ cầu Sắt xe lửa đi xuống đầu ngã năm Hàng Mã - Chả Cá - Hàng Đồng - Thuốc Bắc, dọc theo bờ sông Tô Lịch cũ ở phía bắc. Vì thế mà thời thuộc Pháp, chính quyền thành phố đặt tên phố đó là phố Sông Tô Lịch. Dòng sông Tô Lịch từ chỗ cửa sông thông với sông Hồng theo hướng đông tây, đến phố Hàng Cá thì quặt lên hướng tây bắc đến sát tường thành Hà Nội để làm thành con hào thiên nhiên bảo vệ thành trì; chỗ quặt đó ở ngang số nhà 14 Hàng Lược, những năm thập niên mười trước kia người bên Hàng Đồng (phố cũ) sang chợ vẫn phải qua chiếc cầu tre, cầu đó được thay thế bằng một chiếc cổng lớn, vì lòng sông đã cạn chỉ còn như một lạch thoát nước, do đó mà đường phố này còn một tên nữa là phố Cống Chéo Hàng Lược.

Dân phố Hàng Lược khi không còn bến sông, sống nhờ cả vào chợ Đồng Xuân; họ là những người buôn bán nhỏ, thợ thủ công. Trong phố cũng có một số gia đình công chức và nhân viên sở tư, những gia đình công chức nhỏ thì thường chồng đi làm ở công sở, vợ buôn bán trong chợ, ở nhà bày bán loại chọn riêng thứ xấu bán lẻ cho người qua đường.

Sau ngày giải phóng Thủ đô 10/1954, phố trở lại tên cũ Hàng Lược, có chiềudài 264m, từ ngã ba Hàng Cót đến ngã năm Hàng Mã. Phố vẫn còn 2 ngôi đình: Đình Phủ Từ ở số 19 và đình Vĩnh Trù số 59, đều thờ "Tứ vị Hồng Nương". Tương truyền, vào thời nhà Trần, bà con dân chài ở cửa bể Càn Hải (Nghệ An), vớt được 4 xác phụ nữ, đem chôn cất và lập đền thờ. Về sau dân thuyền mành xứ Nghệ ngược xuôi buôn bán trên sông biển thờ "Tứ Vị" trên thuyền để cầu yên sóng gió. Ở Hà Nội, dọc sông Tô, sông Hồng cũng có tới mười ngôi đền thờ như vậy.
Phố Hàng Lược ngày nay
Cứ như tên gọi thì phố này là nơi tập trung các nhà buôn bán mặt hàng lược chải đầu. Lược sừng thì từ Thụy Ứng (Thường Tín) đem lên. Lược bí thì từ Hoạch Trạch (Bình Giang-Hải Dương) đem sang. Lược gỗ từ làng Tiên Nhị Khê cũng từ Thường Tín mang đến. Thời đấy người ta quen gọi phố này bằng một cái tên phức hợp là Cống Chéo-Hàng Lược. Vì trước kia, ở khoảng giữa phố, chỗ ngang số nhà 12-14 có một cái cống bắc chéo qua sông Tô. Sông Tô vốn từ cửa sông (nơi phố Chợ Gạo ngày nay) qua các phố Nguyễn Siêu, Ngõ Gạch cắt ngang phố Hàng Đường rồi bẻ quẹo lên phía Bắc, qua phố Hàng Lược, nhập vào dãy hào ở ngoài bức tường thành phía Bắc (tức phố Phan Đình Phùng) rồi lên Bưởi… Như vậy là phố Hàng Lược đã chạy dọc trên bờ phía Đông sông Tô, có đoạn lại chính là lòng sông. Tới cuối thế kỷ IX, thực dân Pháp lấp đoạn đầu sông Tô và phá thành Hà Nội. Lúc này chỉ còn vài nhà bán lược ở cạnh đình Vĩnh Trù để đến những năm 1935-1936 trở thành hàng thịt chó và hàng phở…

Từ những năm 20 thế kỷ trước, phố Hàng Lược có một mặt hàng chỉ bán vào dịp Tết: Hàng Hoa. Bắt đầu từ 23 tháng Chạp, Tết ông Công, cho tới tận chiều tối 30 Tết, chợ Hoa họp dọc phố, có người gọi là "phố chợ hoa".

Đi chợ hoa Hàng Lược không những được xem hoa, còn được ngắm những trai, gái Hà Nội, và kể cả các giới thượng lưu, ăn vận rất phong độ đi chơi chợ hoa. Hoa chọn được những cành đào, chậu quất, bó cúc, lay ơn hay những cành hải đường ưng ý lên xe tay, hoặc nhà gần thì đi bộ rước hoa Tết về nhà.

Chợ hoa Hàng Lược còn bày bán cả đồ đồng và đồ cổ ngồi ở phía đầu Hàng Mã, phố Chả Cá, những người chuộng đồ cổ cũng đi đi lại lại ngắm nghía nâng lên đặt xuống xem niên đại xem màu men, khá sành điệu...

Ngay cả những ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) dân tản cư không họp nhưng giở những trang báo cũ còn ghi lại ở những chiến lũy phía Hàng Lược bà con ngoại thành đất làng hoa, vẫn vượt qua nguy hiểm, đồng bào Nhật Tân, Quảng Bá vẫn gửi hoa vào cùng quà Tết tặng chiến sỹ Trung đoàn Thủ đô đang chiến đấu trong nội thành...

Phố Hàng Lược cổ mà lại mới. Hàng Lược đang tự làm mới mình để hòa nhập vào xu thế chung của thời đại.

(Nguồn: Cinet)

Phố Hàng Bút

Đó là tên một con phố dài 68m cắt ngang phố Thuốc Bắc và phố Bát Sứ (phường Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm - Hà Nội).
Phố Hàng Bút ngày nay
Xưa kia, Hàng Bút có tên gọi là phố Hàng Mụn vì chuyên mua mụn vải thừa từ các nhà may để may quần áo, mũ, tất trẻ em, đặc biệt là khâu các bùa túi trẻ em đeo vào các dịp tết Trung Thu, Tết Đoan Ngọ 5/5 âm lịch.


Phố Hàng Bút dài chưa đến 70 mét, nối hai phố Thuốc Bắc và Bát Sứ. Đây là phần đất thôn Đông Thành, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương cũ. Thời Pháp thuộc, phố có tên là phố Côngbanez (Rue Combanère), chuyên bán giấy vở, bút mực, bút lông cho học sinh. Sau năm 1945, phố này được đổi thành phố Hàng Bút (thực ra phố Hàng Bút trước đây ở đoạn cuối phố Thuốc Bắc, đoạn này được sáp nhập vào phố Thuốc Bắc).

Khu phố này được xây dựng trên nền đất thôn Đông Thành, tổng Tiền Túc (sau đổi là tổng Thuận Mỹ, huyện Thọ Xương). Ngôi đền của thôn Đông Thành cũ có cửa chính ở nhà số 7 phố Hàng Vải, còn cổng sau của đình là nhà số 6 phố Hàng Bút. Khi còn chợ người ta trông vào việc buôn bán lặt vặt trong chợ, khi không còn chợ họ đi khâu vá may thuê cho các hàng thợ may, họ mua vải vụn đêm về may mũ, yếm dãi, dây đeo cho trẻ con nên có tên là Hàng Mụn. Ở đây người ta còn làm nghề chặt hạt sen, làm thuê cho những hiệu thuốc bên phố Lãn Ông.

Phố Hàng Bút ngắn, mỗi bên có khoảng dăm số nhà. Nhưng là một phố phát triển nhanh đến chóng mặt. Vài chục năm trước Hàng Bút là "phố cấm", cả đường phố là sân chơi cho các cháu học sinh trường Lê Văn Tám, ngày nay là trụ sở Phòng Giáo dục quận Hoàn Kiếm cao 5 tầng. Bà con hai bên phố "bung" ra mở cửa hàng sánh vai với các phố "liền anh, liền chị".

Phố hàng Bút ngày nay đang chuyển mình phát triển các mặt hàng tiêu dùng và dịch vụ phục vụ đời sống nhân dân thị thành thời kỳ kinh tế hội nhập. Những nét xưa chỉ còn trong ký ức, thực tế trên mặt phố thay đổi hẳn. Hàng hoá đa dạng, phong phú sầm uất, thị trường buôn bán khá hiện đại.

(Nguồn: Cinet)

Phố Hàng Bài

Phố Hàng Bài đi từ ngã tư Đinh Tiên Hoàng - Tràng Tiền đến phố Hàm Long. Đây nguyên là đất các thôn Hậu Lâu, Hữu Vọng, Vũ Thạch Hạ và Hàm Châu.
Phố Hàng Bài xưa
Phố được xây dựng trên nền đất xưa vốn thuộc thôn Hậu Lâu, tổng Hữu Túc và hai thôn Vũ Thạch Hạ, Hàm Châu, tổng Tả Nghiêm, huyện Thọ Xương cũ.


Tới giữa thế kỷ XIX, thôn Hậu Lâu hợp nhất với thôn Hậu Bi thành thôn Cựu Lâu, thôn Vũ Thạch Hạ nhập với thôn Vũ Thạch Thượng gọi chung là thôn Vũ Thạch, Hữu Vọng đổi ra là Vọng Đức, Hàm Châu hợp với thôn Tràng Khánh thành Hàm Khánh. Gọi là Hàng Bài vì có một thời ở đoạn đầu phố là nơi tập trung những nhà làm bán các cỗ bài lá, như tổ tôm, tam cúc...

Phố nằm trong khu vực bọn thực dân mở rộng ngay từ những năm đầu của thời Pháp thuộc. Năm 1888, phố mang tên Đại lộ Đồng Khánh (Boulevard Đồng Khánh). Đầu phố trước có chợ Mới, nơi tập trung các nhà làm những cỗ bài lá (tam cúc, tổ tôm..) nên gọi là Hàng Bài. Sau 1945, được đổi là đại lộ Triệu Quang Phục. Đến 1946, phố được gọi lại là Đồng Khánh. Và đến 1955 phố được đổi tên là phố Hàng Bài.

Cũng thời gian này, nghề làm bài lá đã bị trục ra khỏi phố, nhường chỗ cho các công sở và các hãng buôn của thực dân, tư sản. Ví như ở ngay đầu phố, chợ Mới đã nhường chỗ cho một hãng buôn tạp hóa lớn nhất Hà Nội là “Liên hợp thương mại Đông Dương” (L’Union commereiale indochinoise) mà sau dân chúng quen gọi là “hiệu Gô-đa” nay là chỗ cửa hàng Trung tâm thương mại Tràng Tiền.

Tại đây, thực dân Pháp đã xây dựng, đặt một hãng buôn tạp hoá lớn là "Liên hợp thương mại Đông Dương" (L'Union commerciale indochinoise), dân chúng quen gọi là "hiệu Gođa" (sau là Tổng công ty bách hoá Tổng hợp), một trong những cửa hàng bách hoá lớn nhất Hà Nội trước đây, nay đã được xây dựng lại theo yêu cầu sử dụng mới và đẹp, hiện đại hơn. Gần ngã tư Lý Thường Kiệt, trước đây là trường nữ sinh Đồng Khánh, nay là Trường Trung học Trưng Vương, gần ngã tư phố Trần Hưng Đạo là Bộ tư lệnh cảnh sát, đối diện là Rạp chiếu bóng Tháng Tám, một trong những rạp chiếu bóng lớn nhất ở Hà Nội. Trên phố này, nghề sửa chữa đồng hồ là nghề lâu năm nhất.

Sau Cách mạng 1945, ta đã đổi tên phố là đại lộ Triệu Quang Phục. Những ngày khói lửa tháng 12 năm 1946 nơi này cùng trại Vệ quốc đoàn, là nơi xảy ra những cuộc giao tranh ác liệt giữa bộ đội và tự vệ thành với quân Pháp gây hấn. Nay, Hàng Bài biến đổi nhiều, nhà Gô-đa thành Cửa hàng Bách hóa tổng hợp, rồi nay là Trung tâm Thương mại Tràng Tiền (tráng lệ hơn nhưng vắng khách chứ không sầm uất như thời là Bách hóa Tổng hợp). Hai bên phố là các cơ sở kinh doanh thương mại và dịch vụ. Số 19 thành một địa chỉ văn hóa: Nhà triển lãm nghệ thuật, mỗi lần có trưng bày khách vào ra cũng khá đông. Nhiều cửa hàng thời trang bắt mắt, hấp dẫn. Trại lính Khố Xanh thành Tổng cục Cảnh sát và Cục Xuất nhập cảnh...

Phố Hàng Bài có trung tâm thương mại, có các hiệu thuốc, các cửa hàng thời trang, ăn uống, giày dép, văn hóa phẩm, tạp hóa, di động, trung tâm y tế, nhà triển lãm, nhà trường, công an, v.v... Là một con phố tụ hội đủ kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội...

Phố Hàng Khay

Phố Hàng Khay là một con phố ngắn, đoạn phố từ ngã tư Hàng Bài - Tràng Tiền đến ngã tư Bà Triệu - Tràng Thi dài chỉ khoảng hơn 100m trước đây được gọi là phố Thợ Khảm, nguyên là đất của thôn Thi Vật, Tổng Thuận Mỹ, huyện Thọ Xương, Hà Tây cũ.
Phố Hàng Khay xưa
Hàng Khay là đất làng khảm xưa... Đồ khảm trước, dân thành thị các nhà quyền quý cũng chuộng. Ghế, bàn, sập gụ, tủ chè được khảm trai, khá đẹp... Thợ khảm, khảm hoa, chim, làm từng vẻ đẹp cho các đồ nội thất, phố dẫu ngắn nhưng trước còn có ngôi đền thờ ông tổ nghề. Người thì cho là gốc nghề khảm từ Thanh Hóa đem ra, ông tổ là Nguyễn Kim. Lại có thuyết ông tổ nghề khảm ở Phú Xuyên, gốc gác ở làng Chuôn (Chuyên Mỹ) nay là đất Hà Tây. Có nhà nghiên cứu lại cho tổ nghề khảm họ Trương, tên là Công Thành, lên lập làng nghề từ thời nhà Lý (Lý Nhân Tông).

Hàng khảm ở đây có tiếng từ thế kỷ thứ XIII. Thương nhân Trung Hoa buôn đem về, được các nhà quyền quý mua, coi là vật báu trong nhà... Sách cổ Trung Hoa có nhắc đến các loại khay, cơi trầu khảm, là đồ mỹ nghệ rất được ưa chuộng ở bên nước đó.

Vào thế kỷ 18, khi quân Pháp bắt đầu chiếm Hà Nội, bởi đây là rẻo đất khá đẹp nên chúng cho san các nhà cửa cũ, từng bị đốt phá, xây những ngôi nhà tầng mới, hai tầng, thậm chí ba tầng. Đường xá cũng được mở mang, cùng với kế hoạch xây dựng, nhà hàng dinh thự quanh hồ Gươm...

Phố Hàng Khay, lúc đầu được đặt tên Pháp: Rue des incrusteurs (phố Thợ Khảm) bao gồm cả phố Tràng Tiền bây giờ; rồi lại được đổi tên là phố Paul Bert, tên viên toàn quyền Pháp đầu tiên ở nước ta... Sau Cách mạng tháng Tám, được tách ra, mang tên phố Hàng Khay. Từ tháng 12-1946 đến 10-10-1954 thời Hà Nội bị tạm chiếm, Hàng Khay được đổi tên là phố Anh quốc. Khi Thủ đô giải phóng, phố lại được trả về tên cũ...

Trước đây, phố gồm những cửa hàng bán các đồ mỹ nghệ, áo kimono, áo thêu, phục vụ khách du lịch... Thời ảnh kỹ thuật số, có thêm nhiều hiệu ảnh khá đông khách, các cửa hàng mỹ nghệ, quán cà phê...
Phố Hàng Khay ngày nay
Từ sau ngày Thủ đô giải phóng, tháng 10-1954, phố mang tên mới: phố Hàng Khay. Phố có đặc điểm, chỉ có một dãy nhà bên số lẻ nằm phía nam hồ Hoàn Kiếm. Ở trung tâm Thủ đô, phố Hàng Khay trở thành "chứng nhân lịch sử": Tháng 10 - 1954 "khi đoàn quân tiến về", từ chiến khu, diễu hành qua Hàng Khay tỏa đi tiếp quản Tòa thị chính Thành phố, Bệnh viện Ðồn Thủy, trại Bảo an binh...Các đoàn đại biểu cấp cao, nguyên thủ quốc gia nhiều nước đến thăm Việt Nam đều qua Hàng Khay để về Nhà khách Chính phủ, khách sạn Metropole, dự mít tinh tại Nhà hát lớn...

Ngày nay, mặt hàng xuất hiện nhiều nhất ở phố Hàng Khay vẫn là các cửa hàng phát huy nghề truyền thống "gỗ khảm trai" được bày bán trong các Gallry: mỹ nghệ Hoàng Anh, Collcetion Shop, Moon Shop, Dịch vụ du lịch Hà Nội. Mẫu mã phong phú: Chân dung thiếu nữ, phong cảnh Văn Miếu, Khuê Văn Các, Chùa Một Cột, Cánh đồng quê lúa chín vàng, Nụ cười của lão nông say sưa nhả khói thuốc lào, …

(Nguồn Cinet)

Phố Hàng Khoai

Phố Hàng Khoai dài trên ba trăm năm mươi mét đi từ bờ sông Hồng đến ngã năm Hàng Lược. Hậu Túc (sau đổi là tổng Đồng Xuân), huyện Thọ Xương.
Chợ đào trên phố Hàng Khoai xưa
Phố này được xây dựng trên nền đất xưa thuộc thôn Huyền Thiên, tổng Ở đây xưa kia là nơi tập trung bán các loại củ (khoai) của nông dân mấy tổng lân cận, nơi đất bãi sông Hồng. Thời Pháp thuộc, phố này có tên là Rue de Tubercules (Phố Các Củ). Tên phố Hàng Khoai được gọi chính thức từ sau năm 1945.
Phố có tên là Hàng Khoai vì ở sát bên chợ Đông Xuân, hàng ngày nông dân ngoại thành hay tập trung ở đây để bán các thứ nông sản nhiều nhất là các loại khoai: khoai lang, khoai sọ, khoai môn, cùng với gạo, ngô, đỗ, sắn.

Hàng Khoai là một phố buôn bán nhỏ, một bộ phận của chợ Đồng Xuân. Chỗ gần ngã tư Duranton (Nguyễn Thiệp) là những cửa hàng bán rổ rá thúng mủng, thừng chão, vàng hương. Rồi đến những cửa hàng bán sứ sành có tráng men: ấm chén, bát đĩa, điếu bát, lọ hoa, những đồ dùng thông thường rẻ tiền buon của các lò sứ Bát Tràng, Móng Cái.
Phố Hàng Khoai ngày nay
Ngày nay, một phần phía nam là phần đất chợ Đồng Xuân. Các mặt hàng ở phố này đều là loại nông thổ sản như khoai lang, khoai tây, hành, tỏi, gừng, nghệ được chuyển vào phía sau phố là khu chợ Đồng Xuân - Bắc Qua. Từ đầu phố đến chùa Huyền Thiên, bên chẵn có nhiều cửa hiệu bán đồ gia dụng, hàng I-nox, hàng vệ sinh… có cả một hiệu thuốc lào Tiên Lãng và một hàng đồ tre, giang, rổ rá. Đi qua chùa Huyền Thiên là một dãy các hàng đồ sứ, đa phần là sứ Trung Quốc, đủ loại đĩa, bát, ấm, chén, âu, liễn…

Phố Hàng Ngang

Phố Hàng Ngang là một phố trong khu phố cổ Hà Nội. Phố nối từ phố Hàng Đào đến phố Hàng Đường. Phố Hàng Ngang xưa thuộc phường Diên Hưng, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương thành Thăng Long. Thế kỷ 18 đoạn đầu phố giáp phố Hàng Đào gọi là phố Hàng Lam, phố bán đồ tơ lụa màu xanh lam; đến thế kỷ 19 có tên là phố Việt Đông, phố những người Hoa Kiều Quảng Đông. Khu phố Hoa Kiều buôn bán sầm uất, giàu có, hai đầu phố làm hai cánh cổng để buổi tối đóng lại, đó có thể là một nguồn gốc của tên gọi Hàng Ngang.

Phố Hàng Ngang xưa
Trước năm 1945, người Pháp xưa đặt tên cho phố Hàng Ngang là “Rue de cantonnais”, phố của những người Quảng Đông. Theo các tài liệu báo chí xưa thì người Trung Quốc vào Hà Nội buôn bán, thường là những người cùng quê với nhau, hay tụ hội gần nhau... Từ thời Lê do nhiều người dân Trung Quốc đến làm ăn nên có tên gọi là phố Việt Đông. Thời phong kiến, triều đình Việt Nam- Hậu Lê và Nguyễn- định ra luật cư trú cho người ngoại quốc rất nghiêm. Theo lệ cũ, người Hoa được tổ chức thành "bang", tập trung vào mấy nơi ở Hà Nội là Việt Đông (Hàng Ngang) và Hà Khẩu (Hàng Buồm), hết thời hạn phải về Tầu, nếu tình nguyện ở lại phải thay đổi y phục, phong tục theo người Việt Nam.


Nhiều họ lớn người Minh Hương ở Hàng Ngang như họ Phan, anh em họ hàng đều là chủ hiệu tơ lụa lớn, như Phan Vạn Thanh, Phan Dụ Thành , Phan Đức Thành. Họ buôn bán tơ lụa, có người lại làm cả mại bản cho mấy công ty nhập cảng vải sợi của Pháp nên càng có thế trong nghề đó. Người Minh Hương ở đây đã đem việc cúng lễ của Tàu pha vào với việc cúng lễ của người Việt Nam, như lập hội dựng đền Tam Thánh thờ Quan Công ở Ngọc Sơn cùng với Trần Hưng Đạo trong đó. Trong Người và cảnh Hà Nội, cụ Hoàng Đạo Thúy, một nhà nghiên cứu có nhiều tác phẩm về Hà Nội, viết: “Trên Hàng Đào là Hàng Ngang. Thời Lê những người khách trú gốc Quảng Đông đến rất đông ở phố này, bán tạp hóa, chè và thuốc.

Hàng Ngang nổi tiếng với những hiệu chè Tàu: Sinh Thái, Chính Thái, Ninh Thái, Song Hỷ. Vào phố này, người ta còn thấy những cửa hiệu cao đơn hoàn tán, họ làm đại lý cho các hãng thuốc Đông Y sản xuất ở Hương Cảng, Thượng Hải, Tân Gia Ba, Chợ Lớn.
Phố Hàng Ngang ngày nay
Cũng gắn với văn nghệ, Hàng Ngang còn có Điếm Vè. Theo Doãn Kế Thiện trong sách Hà Nội cũ in năm 1943 (NXB Đời Mới) thì trước đây sáu bảy chục năm ở cuối phố Hàng Ngang, cạnh cổng phường có một cái điếm, điếm là nơi dân phủ canh gác ban đêm. Không ngờ, điếm trở thành một nơi tương đương với trạm thông tin ngày nay; hễ trong phường phố có những chuyện trái với đạo đức thì một ai đó sáng tác ngay một bài vè vừa tường thuật câu chuyện vừa ngụ ý bêu riếu, bí mật đem dán ở đây. Vì vậy đương thời gọi là “điếm vè Hàng Ngang” và nhiều tay nhà giầu cùng quan lại rất sợ cái điếm này. Vì bài vè được nhanh chóng lan truyền và các ông bà hát xẩm đem trình diễn luôn ở các chợ hoặc bến tàu bến xe.

Phố Hàng Ngang ngày nay nối với Hàng Đào là khu buôn bán sầm uất đặc trưng của Hà Nội (từ quần bò, comple, veston, blouse, y phục mùa đông, mùa hè, mùa thu... ), là phố một chiều, và là phố đi bộ buổi tối các ngày Thứ sáu, Thứ bảy, Chủ nhật.

Phố này có vinh dự gắn với cách mạng hiện đại. Ngày nay, giữa phố có ngôi nhà số 48. Trước cửa gắn một tấm bảng đá nổi bật dòng chữ vàng: “Trong ngôi nhà này, tại một phòng gác nhỏ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Nguyên là ngày 19-8-1945, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội thắng lợi rực rỡ. Ngày 22 tiếp đó, tại nhà số 48 này, đồng chí Trường Chinh cùng với Thường vụ Trung ương Đảng họp bàn, ra chỉ thị cho các nơi tiếp tục giành chính quyền và bàn việc đón Bác Hồ về Hà Nội.

Phố Hàng Ngang, nơi kinh tế, văn hóa, lịch sử đan xen nhau, là một phố của kinh kỳ ngàn năm văn vật.

(Nguồn: Cinet)

Phố Hàng Rươi

Hàng Rươi là một phố ngắn một trăm mét, sát lưng với phố Hàng Lược trên bờ phía tây sông Tô Lịch, thuộc đát thôn Yên Phú.

Đi từ Hàng Khoai, qua chợ Đồng Xuân, đến ngã ba Hàng Lược - Hàng Chai - Hàng Mã là bắt đầu của phố Hàng Rươi, thuộc quận Hoàn Kiếm ngày nay. Phố được xây dựng trên nền đất xưa vốn thuộc các thôn Vĩnh Trù và Yên Phú, tổng Hậu Túc (sau đổi là tổng Đồng Xuân), huyện Thọ Xương.


Phố có tên phố Hàng Rươi vì trước kia nơi đây là bến sông Hồng, hằng năm cứ vào mùa rươi (khoảng từ tháng 9 âm lịch) thì có nhiều người mang rươi đến đây bán. Thời Pháp thuộc, phố đã mang tên là Hàng Rươi (Rue des Vers Blancs). Từ sau 1945, tên Hàng Rươi được đặt chính thức.


Phố Hàng Rươi ngày nay không còn là phố kẻ chợ nữa, sông Hồng cũng đã lùi ra xa, nơi đây cũng không còn là chợ bán rươi nữa, nhưng hằng năm, cứ vào mùa rươi, các đường phố Hà Nội lại rộn ràng tiếng rao: "Ai mua rươi ra m....u....a" với âm điệu, tiết tấu đặt biệt mà chỉ những người bán rươi mới có.


Ngoài ra, nơi đây ngày nay bà con làm giàu bằng mặt hàng hoa mới, hoa lạ. Hồng, Quất, Lay ơn, Cúc, Tre, Bằng lăng… được tạo dáng bằng chất liệu lụa, nilông. Giá rẻ, đẹp, bền, hai phần ba phố Hàng Rươi giờ đều bán. Các cửa hang Vân Vượng, Yến, Quỳnh Linh, Thắng Hà, Hoạ Mi, Trúc Anh Hiền, Hoa Tràng An, còn dạy cắm hoa nghệ thuật. Cuối phố có hiệu thời trang Lộc - Tài, Suri may, Shop giầy dép, nội thất rèm cửa, cafe Hoa Long luôn tấp nập khách mua bán, làm cho phố Hàng Rươi thêm nhộn nhịp.

(Nguồn: Cinet)

Cà cuống - Thứ gia vị làm nên nét văn hóa ẩm thực đất Hà Thành

Đất Hà thành vốn nổi tiếng với những nét đẹp tinh tế trong văn hóa ẩm thực. Trong đó, những món ăn mang hương vị truyền thống được nâng lên thành nghệ thuật ẩm thực bởi cách chế biến, nêm nếm gia vị. Nếu không có gia vị đặc biệt cà cuống thì chắc hẳn món bún chả, bánh cuốn, bún thang, chả cá… không thể có được hương vị tinh túy, đặc trưng so với các vùng miền khác.

Ở Hà Nội trước đây, những nơi có không gian rộng lớn và nhiều ánh đèn như cầu Chương Dương, nhà thờ Hà Nội, quảng trường Ba Đình… là địa điểm “tụ tập” lý tưởng của cà cuống. Giờ đây, không hiểu có phải vì không gian chật hẹp, đông đúc của thành phố nên những con cà cuống không còn nhiều nữa. Cũng bởi vậy mà giới trẻ bây giờ không có cơ hội được biết đến những con cà cuống này, chỉ nghe các bà, các mẹ ngồi kể lại mà thấy thật tò mò và tiếc nuối. Cũng là một giống côn trùng có cánh, “yêu thích” ánh sáng như thiêu thân nhưng cà cuống lại mang trong mình những giọt tinh dầu quý giá làm dậy mùi, nổi vị cho bát nước mắm sóng sánh.

Đía bánh cuốn với nước mắm cà cuống
Từ món ăn bình dị như rau muống luộc trong bữa cơm đạm bạc đến các món cầu kì có tại nhà hàng như chả cá Lã Vọng thì chỉ một giọt tinh dầu lấy từ những con cà cuống nhỏ bé cũng đủ để làm người thưởng thức “say” bởi hương vị quyến rũ không gì thay thế được.


Cà cuống là loại côn trùng có ở nhiều nước chứ không riêng gì nước ta. Ở những nước có nền nông nghiệp lúa nước đều có loại côn trùng này. Người Hoa nổi tiếng với món cà cuống xào dầu mè béo ngậy, hay cà cuống luộc chấm muối. Người Thái thì có món cà cuống chiên giòn tan. Nhưng chỉ có ở Hà Nội người ta mới sử dụng phần tinh túy nhất của loài côn trùng này để làm gia vị sống tạo nên những món ăn để đời, tiêu biểu cho cả một nền văn hóa ẩm thực tinh tế được bàn bè xa gần biết đến. Người Hà Nội trong các món “để đời” như bún thang, chả cá, bún chả…khi ăn không thể quên một chút tinh dầu cà cuống vào bát nước chấm cho dậy mùi.

Chả lụa chấm nước mắm cà cuống
Hương vị cà cuống đặc trưng và quyến rũ lắm. Nếu ai đã trót nếm thử một lần thì không thể nào quên được. Khi những cơn mưa cuối hạ bất chợt kéo đến, người ta lại nhớ nao lòng, nhớ đến thấp thỏm đứng ngồi không yên cái hương vị đó. Người ta kể rằng những giọt tinh dầu này là loại “nước hoa” độc đáo mà những con cà cuống đực tiết ra để quyến rũ những con cà cuống cái. Chắc có lẽ vì thế mà nó mang hương thơm nồng nàn, say đắm đến vậy.

Người Hà thành rất “yêu” cái mùi thơm ngào ngạt đó. Yêu thế nên người ta cũng có những cách “thưởng thức” đặc biệt lắm. Người ta dùng một đầu tăm nhúng vào lọ tinh dầu cà cuống, kề sát miệng bát nước chấm hay miệng bát bún. Nhẹ nhàng và kiên nhẫn chờ cho giọt tinh dầu đu đưa trĩu xuống “tong” một tiếng. Giọt tinh dầu này khi rơi xuống tạo nên một vòng tròn nhỏ lan rộng ra rồi lại thu hẹp vào trông rất thích thú. Vòng tròn đó cứ lấp loáng như mặt hồ thu. Mùi thơm thoảng nhẹ nhàng nhưng sâu lắng và mãnh liệt làm thức tỉnh các giác quan. Và cứ thế, nhâm nhi tận hưởng hương vị tuyệt vời. Thật đúng khi người ta nói nét đẹp của văn hóa ẩm thực Hà Nội là ở sự tinh tế, thanh lịch khi thưởng món ăn.

(Nguồn: monngonhanoi.com)

Xôi cốm - Đậm đà hương vị mùa thu

Hà Nội vào thu thật đẹp, cảnh sắc khí trời khiến con người đắm chìm trong cảnh sắc thiên nhiên. Đặc biệt vào những buổi sáng sớm, lang thang trên những con đường Hà Nội những gánh hàng xôi rong, hay những thúng xôi của các bà các chị ở đầu phố thật quen thuộc, nó đã đi vào tiềm thức của mỗi người dân Hà Nội…Những người xa quê sinh sống và làm việc tại Hà Nội cùng ngày càng yêu Hà Nội hơn bởi những nét thân thuộc, thanh lịch nơi đây.

Gói xôi cốm xanh đậm đà hương vị Hà Nội
Xôi thực sự là món ăn đặc biệt, giản dị, thân thuộc nhưng lại chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn hóa ẩm thực người Hà Nội cũng bởi sự đa dạng và phong phú của các loại xôi được người dân nơi đây sáng tạo và chế biến ra. Ngày nay, người dân có phần ưu chuộng các loại xôi thịt, xôi gà, xôi trứng kho, nhưng thực sự họ vẫn dành một tình cảm đặc biệt cho các món xôi cổ truyền như xôi lạc, xôi đỗ, xôi xéo…và đặc biệt là xôi cốm – có thể coi là món xôi đặc sản xứ Hà Thành khi mùa thu về. Dường như ai đã một lần thưởng thức xôi cốm Hà Nội hẳn sẽ khó quên hương vị món ăn đặc sắc này.


Công đoạn nấu xôi cốm cũng phức tạp và cầu kỳ hơn so với những loại xôi thông thường. Muốn có một đĩa xôi cốm thơm ngon, phải chọn loại cốm hơi già cánh từ làng Vòng, địa danh nổi tiếng lâu đời về món đặc sản dân dã này. Những hạt cốm dèn dẹt, mềm mát được cho vào chiếc rổ, rồi nhúng tất cả vào một chậu nước ấm và nhấc ra ngay. Bí quyết làm xôi, ngon hay không chính là phù thuộc ở khâu này. Phải chọn thời điểm nước nóng đúng độ, phải nhúng thật khéo, thật nhanh. Hễ nước nóng quá hay nhúng chậm tay là hạt cốm nát và bị nhạt. Khi đồ xôi cốm, vẩy nhẹ một chút nước ấm để cốm mềm hơn, cho vào trõ, đồ cách thủy, lấy đũa thông nhẹ vài đường từ trên xuống để hơi nhiệt tỏa đều. Khi hơi nước bắt đầu bốc là xôi vừa chín tới, không để quá lâu xôi bị nát, mất hương vị cốm, hạt xôi chín tới, nở đều và mềm dẻo.

Xôi cốm sẽ ngon hơn khi được bọc trong lá sen
Khi nấu xôi phải chú ý lúc xôi vừa chín tới, hạt nở đều, mềm dẻo là bắc ngay ra, nếu không sẽ bị nát và mất đi hương vị thơm ngon đặc trưng của cốm. Tiếp đó rắc chút đường kính vừa đủ độ ngọt dịu và đồ xôi thêm lần nữa cho ngấm đường và chín dẻo rồi rải ra mâm. Vị ngon của xôi cốm sẽ không trọn vẹn nếu thiếu chút hạt sen, đỗ xanh ninh nhừ giã nhỏ và chút dừa nạo đảo qua đường và ít mỡ.
Xôi cốm dẻo thơm, hạt cốm nở đẫy đà, xanh trong. Phủ trùm lên cốm là lớp đậu xanh màu vàng ươm, thơm mát, nhỏ mịn. Vị của xôi cốm rất lạ. Nó vừa có vị xôi vò, vừa có vị của xôi dừa, lại thơm và bùi như bánh đậu xanh, ngòn ngọt của đường kính. Hương vị đặc biệt này, chắc chắn đánh thức cả khứu giác và thị giác của mọi người.

(Nguồn: tạp chí ẩm thực)

Phố Hàng Mành

Khu phố cổ Hà Nội được tạo nên bởi những con phố hàng, phố nghề đông đúc. Phố Hàng Mành cũng vậy, con phố nhỏ bé này dài 150 mét thuộc phường Hàng Gai, quận Hoàn Kiếm.

Phố Hàng Mành nối phố Hàng Bông, chỗ ngã tư Hàng Hài, với phố Hàng Nón, chỗ đầu Hàng Đàn, phố Hàng Mành dài một trăm năm mươi mét, ở trên đất của hai thôn cũ Kim Cổ và Yên Thái.

Phố có lịch sử hơn một thế kỉ do một số dân làng Giới Tế (nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh) đến lập nghiệp, chuyên làm mành lập ra nên có tên gọi là phố Hàng Mành. Phố được xây dựng trên nền đất xưa vốn thuộc thôn Yên Thái và thôn Kim Bát Thượng, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương.


Thời Pháp thuộc, phố được gọi là “Rure des Stores” tức là phố “Hàng Mành”. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ta đã chính thức hóa tên gọi này. Ngày nay, phố Hàng Mành thuộc phường Hàng Gai, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Phố Hàng Mành ngày nay


Trong phố này tập trung nhiều nhà làm mành mành nứa để che cửa. Họ là người làng Giới Tế (huyện Yên Phong, Bắc Ninh), nơi có nghề cổ truyền này; những nhà làm mành nứa ở đây đều có họ hàng với nhau (hiện nay vẫn còn ba, bốn nhà làm nghề mành). Những nhà làm mành dùng cả trong nhà và vỉa hè để chẻ nứa và kê dàn đan mành; họ phần đông ở chỗ đầu phố từ ngã tư Yên Thái đến Hàng Nón.
Là một phố cổ của Hà Nội, nơi làm ăn của thợ thủ công nghèo làm mành nứa che cửa, nên Hàng Mành, ngoài những nhà làm mành, chỉ có những cửa hàng nhỏ buôn bán vặt, hàng quà như bánh giò, phở. Họ là người làng Giới Tế (huyện Yên Phong, Bắc Ninh), nơi có nghề truyền thống này; những nhà làm mành nứa ở đây đều có họ hàng với nhau. Ngoài ra, phố này còn có những cửa hàng nhỏ buôn bán vặt, hàng quà như bánh giò, phở. Đi qua con phố này, du khách sẽ thấy mấy bác nghệ nhân già trải rộng chiếc mành nhuộm màu xanh đang múa bút, dùng màu đỏ, vàng, trắng  trong những chiếc chậu sành nhỏ, vẽ rồng phượng và hoa văn lên nền nứa đan.



Khoảng hai chục năm trở lại đây, phố Hàng Mành là phố chuyên kinh doanh về mành, chỉ còn một số ít hộ sản xuất như cửa hàng Hùng Hải số 1A, cửa hàng Khang Lợi số 3. Sản phẩm mành trên phố cũng đa dạng và phong phú hơn rất nhiều, mang công năng cao được dùng vào nội thất trong gia đình như: mành trải bàn, mành bình phong, mành tranh, mành rèm… những mặt hàng này sử dụng nhiều chủng loại nguyên liệu như tre, trúc, gỗ, vỏ cây, cây cỏ có thân cứng, lá cây... có tới hơn 200 mẫu mã, kiểu dáng mành xuất khẩu sang 15 nước ở cả 5 châu lục như Anh, Ấn Độ, Đức, Hà Lan, Italia, Mỹ, Nhật Bản, Nam Phi, Pháp, Singapore, Thổ Nhĩ Kỳ, Australia...

Khẩu ngữ “tâm vàng, phẩm ngọc” được những người chủ nơi đây lấy làm chuẩn mực cho cách kinh doanh hàng hóa của mình nên năng suất tăng, chất lượng sản phẩm ổn định. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mành tại phố Hàng Mành tăng trưởng đều đặn hàng năm trên 15% trong suốt những năm qua.
Tuy nhiên, niện nay còn rất ít già đình làm mành ở phố này, thay vào dó là các nhà hàng, khách sạn tư nhân kinh doanh, buôn bán.

Cũng như nhiều phố cổ ở Thủ đô, phố Hàng Mành đã tạo được nét đặc trưng cho riêng mình với bản sắc của phố nghề trong thời kỳ đổi mới.

(Nguồn: Cinet)

Những bức ảnh "Hà Nội Xưa" - (Kỳ 1)

Những bức ảnh về một Hà Nội Xưa, hãy cùng xem và cảm nhận về một thời đã qua.

1. Điện Kính Thiên
2. Thành cửa Bắc (nhìn từ bên ngoài)

3. Thành Cửa Bắc (nhìn từ trong ra)
4. Thành Hà Nội (Nhìn từ hướng cửa Sơn Tây)
5. Một góc Hà Nội Xưa
6. Hồ Hoàn Kiếm (Nhìn từ hướng vào Đền Ngọc Sơn).
7. Cầu Giấy Xưa (Giai đoạn 1884 - 1885)
8. Phố Cổ Hà Nội nhìn từ Hồ Hoàn Kiếm
9. Đền Ngọc Sơn, Cầu Thê Húc xưa
10. Chùa Báo Ân xưa (nay là vị trí Bưu điện Hà Nội, vườn hòa Lý Thái Tổ)
11. Một ngọn tháp ở Chùa Báo Ân xưa
12. Một bức hình khác về chùa Báo Ân xưa
13. Tháp Hòa Phong
14. Cầu Thê Húc Xưa
15.  Lối vào đền Ngọc Sơn
(Nguồn: Sưu tầm)

Giới thiệu lịch sử Hà Nội

Chùa một cột - Một biểu tượng của Thăng Long - Hà Nội
Hà Nội ngày nay nằm trên cùng đất bồi tụ của ngã ba sông Hồng, sông Đuống, là vùng trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ, bởi vậy sự hình thành vùng đất Hà Nội  cùng gắn liền với sự kiện tạo vùng châu thổ sông Hồng, vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hà Nội cổ 4000 năm trước từ thời vua Hùng dựng nước, là một vùng đất cổ của một trong 15 bộ của nước Văn Lang.

Căn cứ vào các tài liệu sử học và văn hoá dân gian thì đất Phong Châu là nơi vua Hùng đóng đô. Kinh đô nước Âu Lạc là Phong Khê nay là Cổ Loa - huyện Đông Anh, trải qua bao năm tháng, bao mùa lũ phù sa bồi đắp dần dần hồ đồng bằng đã trở thành đồng bằng. Vào thời ấy khu vực Cổ Loa là bãi bồi, bậc thềm của bờ sông Hồng, sông Ngũ Huyện,..Cổ Loa vừa là thung lũng, vừa là đê ngăn lũ cho kinh kỳ. Trong tình hình địa lý thời bấy giờ không đâu sánh kịp Cổ Loa về địa thế thuận lợi cho một kinh kỳ.

Từ thời khởi thuỷ Hà Nội cổ chỉ mới là một làng quê cổ nằm ven sông Tô Lịch. Làng quê này có cái tên huyền thoại Long Đỗ vào thời Hùng Vương, An Dương Vương.  Đến thế kỷ thứ năm khu làng gốc của đất Hà Nội cổ đã phát triển thành một huyện, một quận tên là Tống Bình vào thời nhà Tuỳ. Đến năm Giáp Tý (544) Lý Nam Đế, sau khi đánh đuổi thứ sử nhà Lương, lên ngôi vua đổi tên nước thành Vạn Xuân, đóng đô ở Ô Diêm Hạ Mỗ (huyện Đan Phượng ngày nay) và dựng thành luỹ bằng tre gỗ ở cửa sông Tô Lịch thông ra sông Nhĩ Hà là đất phường Giang Khẩu hay Hà Khẩu (nay là phố Chợ Gạo – Hoàn Kiếm).


Sang thế kỷ thứ VII Tống Bình trở thành trung tâm của nhà Tuỳ thống trị cả đồng bằng Bắc Bộ. Năm 621 nhà Đường thay nhà Tuỳ bắt đầu xây dựng thành luỹ ở Tống Bình và năm 679 đặt ở đấy trụ sở của “An nam đo hộ phủ”. Đến thế kỷ thứ X, Tống Bình là thành luỹ chính của bộ máy đô hộ phủ phương Bắc, Trương Bá Nghi xây La Thành, Trương Chu đến Cao biền đắp rộng ra lấy bờ sông Tô làm hào tự nhiên. Hà Nội cổ từ đó mang tên Đại La thay cho Tống Bình.

Sau 1000 năm ngoại thuộc, Ngô Quyền giành lại độc lập và trở về kinh đô ở Cổ Loa xưa. Đất nước chưa hoàn toàn thống nhất nên phải đóng đô ở Hoa Lư, một vị trí khuất, địa thế hiểm trở không có khả năng phát triển thành nơi đô hội. Đến triều đại độc lập thứ 3, Lý Công Uẩn đã hạ “chiếu thiên đô” năm 1010, lời chiếu nói rõ lợi của việc thiên đô là “cốt để mưu việc lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì rời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh”. Năm 1010 Lý Công Uẩn rời kinh đô từ Hoa Lư ra Đại La và đổi tên là Thăng Long. Tục truyền khi thuyền ngự từ sông nước Hoa Lư cập bến Đại La, bỗng có Rồng vàng hiện lên trên sông rồi bay vút lên trời, vua Lý Thái Tổ cho đó là điềm lành nên nhân hình ảnh đó mà đặt tên cho kinh đô mới là Thăng Long có nghĩa là rồng bay lên. Từ năm 1010 – 1225 thời kỳ kiến thiết đất nước trên qui mô lớn và Thăng Long xây dựng xứng đang là quôc đô của một nước hùng cường mở đầu một thời kỳ văn hoá rực rỡ, văn hoá Thăng Long.Năm Mậu Thân 1428, nhà Lê lên ngôi vẫn lấy Thăng Long – Đông Đô là quốc đô nhưng đổi thành Đông Kinh (1430).

Triều Mạc ngắn ngủi vẫn lấy Đông Kinh làm quốc đô, thời ấy lái buôn phương tây bắt đầu đến, tên Đông Kinh họ phiên âm ra tiếng La tinh là “Tonquin”. Còn trong dân gian thì “Kẻ Chợ” là tên gọi phổ biến cho đô thị Thăng Long – Đông kinh bấy giờ.Qua các thời kỳ Lý, Trần, Lê kinh thành Thăng Long – Đông đô của nước Đại Việt đã trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước. Nền văn hoá Thăng Long tiêu biểu cho cả kỷ nguyên văn minh Đại Việt từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15. Thăng Long vừa qui tụ, vừa tập trung tinh hoa văn hoá cả nước, vừa toả sáng văn hoá ra cả nước.

Sau hàng nghìn năm bị đế chế Bắc đô hộ, hơn 100 năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. nhân dân Việt Nam mới giành được độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Thành phố rồng bay đã vươn lên mạnh mẽ trong công cuộc phục hưng và phát triển văn hoá. Kể từ ngày giải phóng Thủ đô (10-10-1954) đến nay Hà Nội đã trải qua hơn 40 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngày ấy đã cắm một mốc son sáng ngời, mở ra một thời kỳ mới cho Hà Nội trên con đường đổi mới và phát triển. Hà Nội đã hoà nhập cùng đát nước, hoà nhập với khu vực và quốc tế để bước vào một thời đại mới, hứa hẹn những thắng lợi to lớn hơn trong sự nghiệp vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.

Hà Nội hôm nay là “chàng trai mười bảy” vươn vai Thánh Gióng trên thế tựa Rồng bay với hàng nghìn nhà máy, xí nghiệp lớn nhỏ thuộc mọi ngành nghề khác nhau. Thủ đô Hà Nội đang bước vào thời kỳ phát triển và đổi mới. Mọi hoạt động xã hội đều chuyển theo cái trục kinh tế. Tuy nhiên Hà Nội ngày nay còn là hiện thân của ngàn năm văn hiến, của bản sắc văn hoá, là biểu tượng, là tinh hoa của đất nước.

(Nguồn: Thư viện Hà Nội)

Danh sĩ Lê Ngô Cát – Người viết sử bằng thơ

“Sáu đời Hùng vận vừa suy/ Vũ Ninh có giặc mới đi cầu tài/ Làng Phù Đổng có một người/  Sinh ra chẳng nói, chẳng cười trơ trơ/ Những ngờ oan trái bao giờ/ Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân/ Nghe vua cầu tướng ra quân/ Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích ngang.” (Trích Hồi 1: Chuyện Phù Đổng Thiên Vương - Đại Nam Quốc sử diễn ca)




So với “Đại Việt sử kí toàn thư” - pho sử lớn nhất của nước ta thì “Đại Nam quốc sử diễn ca” của tác giả Lê Ngô Cát (1829-1883) chỉ là các bài thơ minh họa cho các sự kiện lịch sử đã được nhắc đến trong pho sử này. Nhưng sự phóng khoáng của trí tưởng tượng và sự lộng lẫy của hình ảnh trong lời văn khiến “Đại Nam Quốc sử diễn ca” có một sự hấp dẫn đặc biệt: lúc rủ rỉ thiết tha như lời truyền dạy, lúc ngân nga như câu hát đồng dao...

Danh sĩ, sử gia Lê Ngô Cát tự Bá Hanh, hiệu Trung Mại, quê ở xã Hương Lang, huyện Chương Đức, tỉnh Hà Tây cũ, nay thuộc xã Thuỵ Hương, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội. Ông vốn xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học, cha là Lê Ngô Duệ, nguyên giám sinh trường Quốc Tử Giám, đỗ Cống sinh năm 1820, sung làm nội giám ba năm, rồi nhân vì việc nhà xin cáo quan về dạy học. Lê Ngô Cát sinh ra trong thời gian thân phụ ông đã về quê nên tới tuổi trưởng thành ông học cha ngay tại nhà. Năm  Mậu Thân (1848), ông đỗ cử nhân, sau đó ông ra làm quan, lần lượt trải qua các chức giáo thọ phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, ít lâu sau bổ làm tri huyện Thất Khê (Lạng Sơn) rồi thăng dần Hàn lâm viện biên tu. Năm Mậu Ngọ (1858), ông làm việc ở Quốc sử quán (Huế).

Trong các cuộc tìm kiếm sách cũ ở Bắc Kì thời vua Tự Đức (1847-1883), một người học trò ở Bắc Ninh không rõ họ tên đã dâng nộp cuốn sách cổ “Sử kí quốc ngữ ca” mà nội dung là diễn ca lịch sử dân tộc bằng chữ Nôm. Theo sách “Đại Nam thực lục chính biên” (Đệ tứ kỉ, quyển 18)  thì “Tháng Ba năm Tự Đức thứ 2 năm Mậu Ngọ (tức năm 1858), vua sai các quan coi sử quán là Phan Thanh Giản và  Phạm Huy chọn người giỏi quốc âm coi việc sửa chữa “Sử kí quốc ngữ ca” và nối thêm sử đời Lê Trịnh cho đến đời  vua xuất đế (Lê Chiêu Thống), các quan bèn chọn Lê Ngô Cát làm biên tu và Trương Phúc Hào chức tư vụ để sung vào  việc đó”. Tháng tư năm 1858, Lê Ngô Cát bắt tay vào công việc vua giao, nối thêm phần sử đời Lê Trịnh cho đến đời Lê Chiêu Thống, công việc này mất gần hai năm mới hoàn thành. Sách mới lấy tên là “Quốc sử diễn ca”, sau đó được Phạm Xuân Quế và danh sĩ Phạm Đình Toái sửa chữa lại một số phần và đặt tên cuối cùng là “Đại Nam quốc sử diễn ca”. Trong bài tựa sách bản in lần thứ nhất viết vào đầu thu  năm Canh Ngọ đời Tự Đức thứ 23 (1870), Phạm Đình Toái  đã viết: “Quốc sử diễn ca do quan án sát tỉnh Cao Bằng là  Lê công Ngô Cát vâng lệnh soạn… quan thị lang bộ hình là  Phạm công Xuân Quế đã nhuận sắc. Toàn sách cả thảy có 1887 câu”. Mở đầu cuốn sử thơ, tác giả đã giới thiệu: “Nghìn thu gặp hội thăng bình/ Sao Khuê sáng vẻ văn minh giữa trời/ Lan đài dừng bút thảnh thơi/ Vâng đem quốc ngữ diễn lời sử xanh/ Nam Giao là cõi li minh/ Thiên thư định phận rành rành từ xưa/ Phế hưng đổi mấy cuộc cờ/ Thị phi chép để đến giờ làm gương.”

Sau phần giới thiệu, “Đại Nam Quốc sử diễn ca” được chia làm 4 phần lớn, bắt đầu từ thời kì mở nước (Thế kỉ 29 - thế kỉ 2 trước Công nguyên (bắt đầu từ Nhà Hồng Bàng (2879-256 trước CN) rồi đến Nhà Thục (258-207 trước CN) và Nhà Triệu (207-111 trước CN). Thời kì thứ hai là thời kì chống Bắc thuộc (Thế kỉ II trước CN - thế kỉ X sau CN) gồm các các hồi về Nhà Hán và Hai bà Trưng (111 trước CN - 43 sau CN); Giao Châu trong thời Bắc thuộc (43 - 544); Nhà Tiền Lý (544 - 603); Nền đô hộ của nhà Đường (603 - 905). Thời kì xây dựng Độc lập và thống nhất (Thế kỉ thứ X) là chương lớn thứ ba, gồm Nhà Ngô (906 - 967) với Nhà Đinh và nhà Tiền Lê (967 - 1009). Cuối cùng là thời kì phát triển  (Thế kỉ XI - đầu thế kỉ XIX) bao quát từ thời Nhà Lý (1009  - 1225), Nhà Trần (Thời kì thịnh: 1226 - 1340), Nhà Trần  (Thời kì suy: 1341 - 1400), Nhà Hồ và giặc Minh (1400 -  1418), Nhà Hậu Lê (1428 - 1788), Nhà Mạc (1527 - 1592),  Nhà Nguyễn Tây Sơn (1786 - 1802).

Tổng thể “Đại Nam Quốc sử diễn ca” gồm 19 hồi sử dụng văn Nôm và thể thơ lục bát, tóm tắt các sự việc lớn xảy ra trong nước ta từ đời Hồng Bàng đến cuối đời Tây Sơn. Chính vì đặc điểm dễ nhớ, dễ thuộc nên “Đại Nam quốc sử diễn ca” rất dễ đi vào lòng người. Có thể kể đến những sự kiện như: “Bà Trưng quê ở châu Phong/ Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên/ Chị em nặng một lời nguyền/ Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân/ Ngàn Tây nổi áng phong trần/ Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên/ Hồng quần nhẹ bước chinh yên/ Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành/ Đô kì đóng cõi Mê Linh/ Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta”. (Hồi 04 - Nhà Hán đô hộ và Hai Bà Trưng). Hay Quân Thanh đã được Thăng Long/ Một hai rằng thế là xong việc mình/ Dùng dằng chẳng chịu tiến binh/ Nhác đường phòng thủ, mống tình đãi hoang/  Ngụy Tây nghe biết sơ phòng/ Giả điều tạ tội, quyết đường cất quân/ Dặm tràng nào có ai ngăn/ Thừa hư tiến bức đến gần Thăng Long/  Trực khu đến lũy Nam Đồng/ Quan Thanh dẫu mấy anh hùng mà đang?/ Vua Lê khi ấy vội vàng/ Cùng Tôn Sĩ Nghị sang đàng Bắc Kinh/  Qua sông lại sợ truy binh/ Phù kiều chém dứt, quân mình thác oan. (Hồi 19 - Nhà Nguyễn, Tây Sơn -Quang Trung đại phá quân Thanh).

Đến nay “Đại Nam quốc sử diễn ca”của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái đã có tuổi đời hơn trăm năm. Mặc dù do điều kiện giai cấp và thời đại của các tác giả nên nội dung và hình thức của tác phẩm có bị hạn chế trên một số điểm, nhưng nhìn chung tác phẩm đã ghi đậm một tinh thần yêu nước mạnh mẽ, sáng rực niềm tự hào dân tộc chính đáng. Đó chính là giá trị chân chính của sách diễn ca lịch sử và những tác giả đã làm nên bài ca nồng nhiệt về lịch sử dân tộc ta.

(Nguồn: hanoitv.vn)

Kerajaan