clean-5

Wisata

Budaya

Kuliner

Kerajaan

kota

Suku

» » Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Nơi hội tụ nguyên khí quốc gia

Trong số hàng nghìn di tích lịch sử của Hà Nội, thì Văn Miếu - Quốc Tử Giám là di tích gắn liền với sự thành lập của kinh đô triều Lý, đã có lịch sử gần nghìn năm, tiêu biểu cho Hà Nội và cũng được coi là biểu tượng cho văn hóa lịch sử Việt Nam, nơi thờ kính các bậc Tiên Thánh, Tiên nho và đào tạo nhân tài cho đất nước.

Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng vào thời nhà Lý, thế kỷ XI. Với chức năng là nơi thờ Khổng Tử với những nghi lễ tế trang trọng được tổ chức hàng năm, vừa là nơi đào tạo bồi dưỡng tri thức Nho học của Nhà nước. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một cơ quan rất quan trọng của triều đình thời bấy giờ. Những người được bổ nhiệm đứng đầu Văn Miếu – Quốc Tử Giám đều là những Đại Khoa, những nhà khoa bảng lớn, có tri thức và tài năng đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của đất nước và dân tộc.


Với bề dày gần 1000 năm, nơi đây đã đào tạo nên hàng ngàn các bậc đại khoa, hiền tài cho đất nước. Là một trung tâm giáo dục lớn nhất nước ta thời xưa, Văn Miếu – Quốc Tử Giám đồng thời cũng là nơi hun đúc nên bao truyền thống văn hóa giáo dục quý báu trong đó có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, truyền thống trọng hiền tài của dân tộc. Cũng vì thế, các thế hệ người Việt Nam xưa và nay đều tôn vinh Văn Miếu – Quốc Tử Giám là trường Đại học đầu tiên của Việt Nam.

Theo Đại Việt sử ký, vào mùa thu năm Canh Tuất - 1070, Vua Lý Thánh Tông đã cho khởi công xây dựng Văn Miếu để thờ các bậc tiên thánh tiên hiền, các bậc nho gia có công với nước, trong đó có thờ Khổng Tử - người sáng lập ra nền nho giáo phương Đông và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Đồng thời bổ nhiệm những vị quan giỏi văn vào Văn Miếu để giúp các hoàng tử, các con em quan lại.

Năm 1075, đời vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Tam trường đầu tiên ở nước ta. Khoa thi này chọn được 10 người giỏi nhất, đỗ đầu là Nguyễn Văn Thịnh người làng Đông Cứu (Bắc Ninh) sau này ông làm quan tới chức Thái sư.

Năm 1076, Vua Lý Nhân Tông quyết định khởi xây Quốc Tử Giám - một trường Nho học cao cấp nhất hồi bấy giờ nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước. Đây là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu sự chọn lựa đầu tiên của triều đình phong kiến Việt Nam về vấn đề giáo dục, đào tạo con người Việt Nam theo mô hình Nho học châu Á.

Năm 1086, đời vua Lý Nhân Tông lại mở khoa thi. Mạc Hiển Tích người làng Lũng Động (Chí Linh, Hải Dương) đỗ đầu, sau này làm quan tới chức Thượng thư, Đại học sĩ. Triều Lý rất quan tâm đến việc đào tạo, nên nền Nho học cũng bắt đầu thịnh lên từ đấy. Triều Trần (1233) đời Trần Thái Tông mở khoa Thái học sinh (sau này là Tiến sĩ), đến năm 1252 nhà Trần mở rộng chọn thêm những Nho sinh ưu tú trong dân thường được vào học tại Văn Miếu, giảng Tứ thư, Ngũ kinh và học thêm cả võ nghệ. Thời kỳ này nhà giáo Chu Văn An được mời vào giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Ông đã biên tập nhiều sách quan trọng làm nội dung giảng dạy các Nho sinh. Thời kỳ này nhà Trần đặt lại thứ bậc trong thi cử, đỗ bậc nhất có Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.

Năm 1253, vua Trần Thánh Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Học viện, đồng thời lấy đây làm nơi giảng dạy cho con em vua quan và những người học giỏi trong cả nước. Dưới triều Trần, trường quốc học Giám được nâng dần tới mức đại học và chính thức được đặt tên là Thái Học viện. Suốt ba thế kỷ Triều Lê, trường Quốc học không hề đổi chỗ, hằng năm đón học sinh khắp nơi vào học. Và cứ mỗi khoa thi, cửa nhà Thái Học lại treo bảng ghi tên những người đậu tiến sĩ. Sau đó, các vị tân khoa, trước khi về vinh quy bái tổ đều được dự nghi lễ bái yết ở Văn Miếu do triều đình tổ chức.

Thời Hậu Lê, Lê Thái Tổ (Lê Lợi) vừa lên ngôi đã quan tâm ngay đến việc giáo dục, đã tuyển chọn các Nho sinh ưu tú ở các nơi vào Quốc Tử Giám để được các thầy giỏi giảng dạy. Nhà Lê còn khuyến khích dựng trường, mở lớp ở các nơi, để nâng cao dân trí. Đời Lê Thánh Tông (1483) cho phát triển in sách, đặt ra lệ khắc tên tuổi Tiến sĩ vào bia đá cho những người thi đỗ từ năm 1442, mỗi khoa thi một tấm bia. Đời vua Lê Hiển Tông (1779) vẫn còn tất cả 116 tấm bia đá trên lưng rùa đá. Do chiến tranh, các bia đá thất lạc, nay chỉ còn 82 bia. Trong những tấm bia ấy, nhiều chỗ bị Triều Nguyễn đục xóa bỏ đi những người đỗ thời Chúa Trịnh và thời Tây Sơn. Cuối năm 1976, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một con rùa đế bia chìm dưới lòng hồ cạnh khuê Văn Các. Thân bia chưa tìm thấy song con rùa đế bia đã nâng số bia tiến sĩ lên 83. Năm 1802, nhà Nguyễn cho xây thêm Khuê Văn Các để các nhà Nho làm thơ và bình thơ.

Không chỉ nhằm tôn vinh đạo học, mỗi tấm bia ở Văn Miếu còn là một tác phẩm điêu khắc, một tác phẩm nghệ thuật thư pháp độc đáo. Văn bia đều do các bậc đại danh nho soạn. Với lời văn hàm súc, ý tứ sâu sa, văn bia đề khoa thi Nhâm Tuất do Hàn lâm viện Thừa chỉ Thân nhân Trung soạn cách đây 517 năm được coi là tuyên ngôn của nền giáo dục nước nhà: " Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy các bậc thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên".

Sử cũ ghi rằng: Vị trí của chính điện và Nhà Thái Học vẫn ở vị trí từ khi khởi dựng từ đời Lý nhưng quy mô các công trình kiến trúc được mở rộng thêm nhiều. Năm 1483, vua Lê Thánh Tông cho làm thêm điện Đại Thành, hai nhà giải vũ Đông Tây, nhà chứa ván in sách, kho tế khí, nhà Minh luân. Năm 1716, các công trình trên được Thám hoa Nguyễn Quý Đức tôn tạo lại. Năm 1717, ông đứng ra trông coi dựng 20 tấm bia tiến sĩ từ khoa thi 1656 đến 1715.

Đến thời Nguyễn, Quốc Tử Giám dời vào kinh đô Huế, Văn Miếu Thăng Long đổi gọi là Văn Miếu Bắc thành, nhà Quốc Tử Giám đổi làm đền Khải Thánh, đến thời Thành Thái (1889-1907) kiêm làm Văn chỉ huyện Thọ Xương. Chính vì những thay đổi ấy mà tấm biển lớn ở cổng trước để là Thái Học Môn được thay bằng Văn Miếu Môn.

Trong những năm dưới triều Nguyễn, Thăng Long không còn là kinh đô nhưng Văn miếu - Quốc Tử Giám vẫn được các quan đầu tỉnh chăm sóc, tôn tạo. Khuê Văn Các được dựng năm 1805 đời Gia Long, trước làm bằng gỗ, khoảng niên hiệu Minh Mạng (1820-1840), Tổng đốc Hà Nội Đặng Văn Hòa cho xây dựng lại bằng gạch rỗng, quy cách thanh thoát, rộng đẹp. Năm 1863, Bố chính Hà Nội Lê Hữu Thanh, tổng đốc Hà- Ninh Tôn Thất Hân cùng Án sát Hà Nội Đặng Tá thu nhập các bia tản mát, dựng thành hàng ở hai bên giếng Thiên Quang (mỗi bên hai hàng 41 tấm). Lại làm hai nhà bia, mỗi nhà 11 gian để che mưa nắng, nhưng chỉ được ít năm, hai nhà bia trên đã không còn nữa.

Những năm thực dân Pháp chiếm Hà Nội, hai vườn bia có lúc hoang vắng, cỏ dại mọc cao lút đầu. Năm 1947, quân Pháp bắn đại bác phá hủy hoàn toàn đền Khải Thánh, dấu tích của hai trường đại học đầu tiên chỉ còn nền điện, những bức tường đổ, vài chiếc cổng cuốn lở lói.

Từ ngày giải phóng năm 1954, nhận rõ giá trị đặc biệt của di tích, Sở văn hoá Hà Nội đã liên tục từng bước tu sửa và bảo vệ khu di tích Văn Miếu. Chiều ngày mồng một Tết Nhâm Dần (5-2-1962), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới thăm Văn Miếu và dự Chương trình ca nhạc "Mừng Đảng mừng Xuân".

Năm 1987, năm đầu tiên của thời kỳ đổi mới toàn diện của đất nước, đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã tới thăm Văn Miếu và chỉ ra "những việc cần làm ngay" ở khu di tích này. Năm 1990, tại Văn Miếu đã thành lập Trung tâm hoạt động khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Năm 1999, để kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội (1010-2000), nhà nước ta cho xây dựng lại khu Thái Học - Văn Miếu theo lối kiến trúc cổ, thờ các vị vua: Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và Nhà giáo Chu Văn An là những người có nhiều công giữ gìn và bồi đắp nền Nho học trong trường Đại học đầu tiên của nước ta.
Nơi thờ Chu Văn An
Ngày nay, Văn Miếu - Quốc Tử Giám là nơi rằm tháng Giêng hằng năm Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức báo cáo kết quả của nền văn học trong năm và bình những bài thơ hay. Đây là nơi nhà nước tổ chức trao các hàm, học vị: Giáo sư, Viện sĩ, Tiến sĩ… cho những trí thức mới. Hằng năm, cứ sau kỳ tốt nghiệp bậc đại học, thủ khoa của các trường được về Văn Miếu - Quốc Tử Giám để Chủ tịch UBND Tp.Hà Nội trao bằng khen và tham quan rất nhiều hoạt động trong lĩnh vực văn hóa được tổ chức tại Văn Miếu. Đặc biệt, khách nước ngoài từ khắp các lục địa cũng về đây hằng ngày để tham quan và tìm hiểu trường Đại học đầu tiên của Việt Nam, Văn Miếu - Quốc Tử Giám.

Văn Miếu - Quốc Tử Giám, cái nôi của nền giáo dục khoa cử Việt Nam, sau 930 năm chứng kiến bao thăng trầm nay trở lại về với vẻ đẹp xưa. Hình ảnh gác Khuê Văn nay đã trở thành biểu trưng chính thức của Thủ Đô Hà Nội, từ lâu đã in đậm trong tâm khảm của người dân Việt Nam ở trong và ngoài nước.

(Nguồn: Cinet)

About ICTSharing

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.
«
Next
Newer Post
»
Previous
Older Post

No comments:

Leave a Reply

Kerajaan